Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) đã được Quốc hội Việt Nam thông qua, nhiều dấu hiệu cho thấy hàng hóa chất lượng cao từ châu Âu sẽ tràn về Việt Nam. Bài toán đặt ra cho doanh nghiệp Việt hiện nay là nhận diện hàng hóa châu Âu và nhận diện chính mình trên tinh thần “biết bạn-biết ta” để cùng thắng trên thương trường, để không ai phải bị đẩy ra khỏi cuộc chơi.
Điểm cộng: Người Việt Nam đang quan tâm sử dụng hàng Việt
Theo bà Lê Minh Trang -đại diện Nielsen Việt Nam, đã có những chuyển đổi đáng kể trong giỏ hàng và cách thức mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam. Người tiêu dùng Việt Nam đang có xu hướng sử dụng các sản phẩm tiêu dùng nội địa nhiều hơn. Kết quả khảo sát của Nielsen cho thấy, 17% người tiêu dùng Việt Nam chỉ mua hàng tiêu dùng nội địa, 59% người dùng đa phần mua hàng tiêu dùng nội địa.
Tỷ lệ này đang tăng bởi người tiêu dùng ưu tiên về chất lượng sản phẩm quan sát được, nguồn cầu đang dịch chuyển về phía hàng nội địa. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam khẳng định được chất lượng, nguồn gốc và sự quan tâm đến sức khoẻ để đảm bảo vị thế trong lòng người tiêu dùng.
Theo báo cáo của Sở công thương các địa phương, tỷ lệ hàng Việt tại các siêu thị vẫn được duy trì ở mức cao (trên 80%) như: Co.opmart là 90 – 93%, Satra 90 – 95%, Vinmart 96%, Vissan 95%, Hapro 95…. Tỷ lệ hàng Việt tại các hệ thống siêu thị nước ngoài chiếm từ 65 – 95%. Cụ thể: Lotte, Big C là 90%, AEON – Citimart 82 – 85%, trung tâm thương mại Emart 96%, trung tâm thương mại Saigon Centre (68%)…. Bên cạnh đó, tỷ lệ hàng Việt tại các chợ truyền thống, cửa hàng tiện lợi cũng chiếm từ 60% trở lên.
Thị trường EU hấp dẫn cỡ nào?
Theo các chuyên gia, EVFTA được kỳ vọng góp phần giúp GDP Việt Nam tăng thêm bình quân từ 2,18-3,25% (giai đoạn 2019-2023); từ 4,57%-5,30% (giai đoạn 2024-2028); và 7,07%-7,72% (giai đoạn 2029-2033).
Thị trường EU (bao gồm 27 quốc gia, dân số 450 triệu người, GDP hằng năm đạt khoảng 16.000 tỷ USD) rộng lớn và hấp dẫn với Việt Nam trong việc thúc đẩy tăng tốc xuất khẩu qua thị trường này. Theo Tổng cục Hải quan, năm 2019, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU đạt 41,7 tỷ USD, ngang bằng với kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc.
Trong đó, điện thoại và linh kiện với kim ngạch đạt 12,36 tỷ USD; Nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 5,06 tỷ USD; Nhóm nông lâm thủy sản lớn thứ hai của Việt Nam (chiếm 15-17% kim ngạch xuất khẩu), chỉ sau Trung Quốc (20-22%); Ngoài ra, dệt may, giày dép, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng… đều đang duy trì được kim ngạch hàng tỷ USD.
Ngay khi EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
Nhận diện hàng Âu
Theo Bộ Công Thương, nhóm hàng được dự báo tăng nhập khẩu nhiều nhất từ EU là phương tiện và thiết bị vận tải, chiếm khoảng 12% tổng giá trị nhập khẩu tăng thêm, nhóm hàng máy móc thiết bị (10%), dệt may, điện thoại và linh kiện điện tử (6 – 7%), nông lâm thủy sản (5%).
Ông Nguyễn Thái Dũng -Tổng giám đốc Công ty bán lẻ BRG, cho biết: Hiện nay đang có xu hướng khách hàng quan tâm nhiều hơn về chất lượng sản phẩm, thương hiệu và uy tín nhà sản xuất. Hàng hoá châu Âu đang có lợi thế về điều này. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp châu Âu đã chủ động tiếp cận các hệ thống phân phối trong nước để chào hàng. Đây là điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Cam kết mở cửa của Việt Nam là có lộ trình, đặc biệt đối với những nhóm sản phẩm nhạy cảm, nên EVFTA cũng là cơ hội, sức ép hợp lý để các doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh, thay đổi phương thức kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Vì vậy, ngay từ bây giờ, nếu không muốn bị loại khỏi cuộc chơi, các doanh nghiệp Việt Nam phải thay đổi trong việc phát triển sản phẩm, chiến lược tiếp cận khách hàng.
Hàng Việt yếu chỗ nào?
Ông Lê Hoàng Long -Quản lý bộ phận tư vấn chuỗi bán lẻ của Nielsen Việt Nam, cho rằng bao bì vẫn được xem như điểm yếu nhất của hàng hóa Việt, khách hàng thường đánh giá là đơn điệu, kém hấp dẫn. Nếu vẫn không cải thiện được điều này, hàng Việt sẽ thua hàng ngoại ngay tại kệ hàng bày bán trong siêu thị.
Theo Nielsen, trong bối cảnh hiện nay, người tiêu dùng có xu hướng mua sản phẩm có bao bì to hơn cho hàng thiết yếu và gói nhỏ cho nhóm ít cần thiết với mục đích tiết kiệm chi phí.
Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần đa dạng kênh phân phối để tiếp cận người dùng. Bộ Công Thương cho biết, các doanh nghiệp, hàng hóa Việt Nam gặp khó khăn khi tham gia vào chuỗi phân phối của các siêu thị nói chung và siêu thị nước ngoài nói riêng.
Ngoài việc phải trải qua một quy trình phức tạp về thủ tục, các nhà cung cấp phải trả hàng loạt phí như: Phí trưng bày, phí mở mã, quầy kệ, phí marketing, thưởng doanh số… Tổng các loại chiết khấu từ 20- 30% giá bán.
Nielsen cho biết, hiện nay có sự chuyển dịch qua kênh bán hàng hiện đại và thương mại điện tử. Tuy nhiên, kênh bán hàng truyền thống chiếm tỷ trọng 85% vẫn là một phần quan trọng. Vì vậy, doanh nghiệp Việt cần đảm bảo sự hiện diện trong những cửa hàng trọng yếu chiếm 50% doanh số trong ngành hàng của mình.
Trao đổi với báo chí, PGS.Phạm Tất Thắng cho biết: EVFTA mở ra cơ hội cho Việt Nam phát triển kinh tế mở ra thế giới. Nếu Việt Nam đưa được hàng hoá vào thị trường EU thì đó là giấy thông hành để đưa hàng ra thế giới.
Ngoài ra, để đưa được hàng vào EU thì các doanh nghiệp Việt Nam cần vượt qua chính mình, từ bỏ thói quen làm ăn chụp giật, thiếu liên kết, không vào các chuỗi, không tạo niềm tin khi hợp tác.
Phạm Phù Cát -Theo TCV